Sau hơn 3 năm thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tỷ lệ tận dụng những ưu đãi xuất xứ trong hiệp định này còn chưa cao, đặc biệt ở một số nhóm ngành hàng trọng điểm...
Sắt thép và các sản phẩm sắt tận dụng tốt ưu đãi từ CPTPP
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) chính thức có hiệu lực từ 14/1/2019. Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm 2021 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đạt 45,7 tỷ USD, tăng 18,1% so với năm 2020.
Trong 10 tháng năm 2022, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước CPTPP đạt 45 tỷ USD, tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2021. Xuất khẩu sang các nước đối tác thuộc châu Mỹ lần đầu có FTA với Việt Nam như Canada, Peru, Mexico cũng có kim ngạch tăng trưởng rất mạnh mẽ.
HIỂU BIẾT VỀ CPTPP ĐÃ CẢI THIỆN ĐÁNG KỂ
Nhận định về kết quả đạt được kể từ khi thực hiện CPTPP, tại tọa đàm “Gia tăng tỷ lệ tận dụng ưu đãi của doanh nghiệp Việt Nam trong CPTPP” mới đây, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), cho rằng mặt được lớn nhất mà chúng ta thu được từ CPTPP đó chính là nhận thức và hiểu biết của các doanh nghiệp về CPTPP đã cải thiện đáng kể.
Kết quả khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy tỷ lệ các doanh nghiệp hiểu về CPTPP hay hiểu rõ về CPTPP đã tăng trưởng mạnh, trong khoảng 2 năm tăng từ hơn 2% lên gần 9% trong năm 2021 - đầu 2022.
Một điểm tích cực nữa là kim ngạch xuất khẩu sang CPTPP nói chung và đặc biệt là sang ba thị trường chưa có FTA khi ký CPTPP là Canada, Mexico, Peru tăng trưởng rất mạnh.
Đặc biệt, thặng dư thương mại từ hai thị trường Canada và Mexico là một con số rất đáng kể, năm 2019 chiếm tới hơn 50% thặng dư thương mại, năm 2021 thặng dư của họ lên đến 8,5 tỷ USD. Không chỉ vậy, có thời điểm xuất khẩu sang thị trường Peru tăng trưởng đến ba chữ số.
Tuy nhiên, theo ông Khanh, mặc dù chúng ta xuất khẩu sang Canada, Mexico giá trị tăng nhưng tỷ trọng của hai thị trường này còn tương đối khiêm tốn trong tổng kim ngạch. Hơn nữa, ở những mặt hàng chúng ta có tỷ lệ tận dụng tốt thì giá trị chưa cao, còn những mặt hàng xuất khẩu giá trị cao thì tỷ lệ tận dụng lại còn tương đối khiêm tốn.
Bà Đỗ Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhìn nhận tỷ lệ sử dụng ưu đãi tại các thị trường mới trong CPTPP không quá thấp. Nếu nhìn con số về tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi trong CPTPP ở mức 6,7%, về con số tuyệt đối thì có vẻ thấp, nhưng thực tế con số này tính trên tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra toàn bộ khối, gồm 11 nước thành viên và trong đó mới có 6 nước thành viên đã thực thi CPTPP tính đến thời điểm khoảng từ tháng 8/2021 trở về trước, tính riêng sáu nước này, tỷ lệ sẽ cao hơn chứ không phải là 6,7%.
Xét về góc độ mặt hàng, nếu tính trên tổng thể chung của khối CPTPP bao gồm những nước đã thực thi và những nước chưa thực thi hiệp định, tỷ lệ những nhóm hàng chúng ta sử dụng tốt là: giày dép chiếm khoảng 43%; xơ sợi cũng khoảng 33%; sắt thép và các sản phẩm sắt, thép 76%; điện thoại và linh kiện điện thoại là 13% và thủy sản là 6%.
Ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty may Hưng Yên, thừa nhận rằng sau 3 năm thực hiện CPTPP, tỷ lệ xin xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan của dệt may rất thấp.
Trong số 7 nước đã ký CPTPP thì chúng ta hầu như đã có hiệp định song phương hoặc đa phương, chẳng hạn như với Nhật Bản, New Zealand, do ta đã có FTA song phương nên gần như đã tận dụng từ trước.
Đơn cử, FTA giữa Việt Nam - Nhật Bản thì điều kiện để hưởng thuế suất 0% còn “dễ thở” hơn so với CPTPP, đó là lý do giải thích cho việc tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan trong CPTPP mới ở mức gần 7%.
Đồng tình, ông Trần Thế Phương, Trưởng phòng Quản lý thương mại, Sở Công Thương Bình Dương, chia sẻ do đặc thù các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của tỉnh còn mang nặng hình thức gia công, chế biến, đặc biệt là hai ngành dệt may, da giày nên việc tận dụng nguyên liệu, vật liệu trong nước và các nước thuộc khối CPTPP còn hạn chế, tuy có tăng dần theo từng năm nhưng vẫn chưa đạt theo kỳ vọng.
Nguyên nhân chính là do các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng đủ về số lượng và chất lượng cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu.
Nội dung bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 50 phát hành ngày 12-12-2022. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Thương mại điện tử đang thiếu nhân lực ở nhiều vị trí chủ chốt
Nhu cầu nhân lực cho thương mại điện tử tăng trưởng 30–40% mỗi năm nhưng chỉ khoảng 30% nhân lực hiện được đào tạo chính quy. Khoảng cách này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng chương trình đào tạo hiện đại, gắn kết thực tiễn…
Aristino lan tỏa tinh thần dân tộc qua thời trang và trách nhiệm xã hội
Mừng đại lễ, thương hiệu thời trang Aristino không chỉ mang đến những sản phẩm chất lượng mà còn lan tỏa tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc qua loạt hoạt động ý nghĩa, thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng và xã hội.
Ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết Quốc hội về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) tổ chức đàm phán hoàn tất các quy trình, thủ tục và tiến hành, ký kết điều ước quốc tế với các đối tác về hợp tác đầu tư xây dựng 2 dự án. Phấn đấu hoàn thành trong tháng 9/2025 đối với dự án Ninh Thuận 1 và tháng 12/2025 đối với dự án Ninh Thuận 2…
Sản xuất hữu cơ: Hướng đi bền vững của ngành chè Việt Nam
Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, các chuyên gia cho rằng để cải thiện kết quả xuất khẩu, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy sản xuất theo quy trình hữu cơ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường bền vững…
Thịt trâu thải loại, giá rẻ từ Ấn Độ nhập khẩu về Việt Nam ngày càng nhiều
Theo số liệu từ Cục Hải Quan, trong nửa đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu tới 103 nghìn tấn thịt trâu từ Ấn Độ, tăng 14,2% về khối lượng với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói, thịt trâu Ấn Độ vốn từ giống trâu Murrah chuyên nuôi để lấy sữa, thịt không ngon, nhưng lại bán chạy ở Việt Nam…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: