Mức bình quân tiền lương đóng bảo hiểm xã hội là căn cứ để tính lương hưu từ 1/7/2025
Nhật Dương
09/12/2024, 10:07
Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội này là căn cứ để tính lương hưu, trợ cấp một lần, hưởng bảo hiểm xã hội một lần, trợ cấp tuất một lần cho người lao động...
Lương hưu giúp đảm bảo an sinh xã hội cho người về hưu. Ảnh: Duy Nguyễn.
Cách tính cụ thể được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đề xuất tại dự thảo Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc đang được xây dựng. Quy định dự kiến áp dụng từ ngày 1/7/2025, cùng thời điểm hiệu lực của Luật Bảo hiểm xã hội 2024.
Theo đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất cách tính mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương này như sau:
Đối với người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 1/1/1995: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 5 năm (60 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 60 tháng.
Người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/1995, đến ngày 31/12/2000: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 6 năm (72 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 72 tháng.
Người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2001 đến ngày 31/12/2006: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 8 năm (96 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 96 tháng.
Người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2007 đến ngày 31/12/2015: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 10 năm (120 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 120 tháng.
Người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian từ ngày 1/1/2016 đến ngày 31/12/2019: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 15 năm (180 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 180 tháng.
Người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ từ ngày 1/1/2020 đến ngày 31/12/2024: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 20 năm (240 tháng) cuối trước khi nghỉ hưu chia cho 240 tháng.
Riêng đối với người lao động bắt đầu tham gia bảo hiểm xã hội từ ngày 1/1/2025 trở đi: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của toàn bộ thời gian đóng chia cho tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Người hưởng chờ nhận lương hưu tại Hà Nội. Ảnh: Thu Hiền.
Đối với người lao động có toàn bộ thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định: Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của các tháng đóng bảo hiểm xã hội, chia cho tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Trường hợp người lao động vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định được tính như sau:
Mức bình quân tiền lương = (Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của các tháng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định), chia cho tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Trong đó, tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, được tính bằng tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, nhân với mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Trường hợp người lao động có từ 2 giai đoạn trở lên, thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, thì tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định được tính theo quy định trên.
Số năm cuối là số năm gần nhất đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định. Tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, là tổng số các tháng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định của các giai đoạn.
Ví dụ, ông T nghỉ việc hưởng lương hưu khi đủ 61 tuổi 6 tháng, có 32 năm đóng bảo hiểm xã hội. Diễn biến thời gian đóng bảo hiểm xã hội của ông T như sau:
Từ tháng 1/1996 đến tháng 12/2015 (20 năm) đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định.
Từ tháng 1/2016 đến tháng 4/2021 (5 năm 4 tháng) đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định.
Từ tháng 5/2021 đến tháng 4/2026 (5 năm) đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định. Ông T hưởng lương hưu từ tháng 5/2026.
Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định của ông T được tính như sau:
Tổng số tháng đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định là: 20 năm 5 năm = 25 năm (300 tháng).
Mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định của ông T được tính như sau: Mức bình quân tiền lương = Tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của 6 năm cuối đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định (12 tháng tính từ tháng 1/2015 đến tháng 12/2015 và 60 tháng tháng tính từ tháng 5/2021 đến tháng 4/2026), chia cho 72 tháng.
Như vậy, tổng số tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định của ông T được tính là: 300 tháng x Mức bình quân tiền lương.
Cách tính mức trợ cấp hằng tháng cho người không đủ điều kiện hưởng lương hưu
Quy định về thời điểm hưởng lương hưu có hiệu lực từ ngày 1/7/2025
Quân đội chuẩn bị 5 máy bay, 15 tấn nhu yếu phẩm tiếp sức miền trung chống bão số 5
Tối ngày 25/8, Văn phòng Ban Chỉ đạo Phòng thủ dân sự quốc gia cho biết Bộ Quốc phòng đã huy động lực lượng lớn bộ đội, dân quân cùng hàng nghìn phương tiện các loại để kịp thời ứng phó với bão số 5 (bão Kajiki), bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của người dân và Nhà nước.
Bão số 5 diễn biến phức tạp, yêu cầu siết chặt kiểm soát an toàn cho người dân
Ngay sau khi bão số 5 đổ bộ vào đất liền khu vực Nghệ An – Hà Tĩnh lúc khoảng 17h ngày 25/8, với sức gió mạnh cấp 11, giật cấp 13, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp lần thứ ba trong ngày của Ban Chỉ đạo tiền phương ứng phó bão số 5 vào lúc 18h, ngay sau cuộc họp lúc 14h cùng ngày.
Bắc Trung Bộ có nơi mưa tới 400 mm, cảnh báo thiên tai dồn dập
Chiều tối 25/8, bão số 5 đã suy yếu sau khi đi vào đất liền Nghệ An - Hà Tĩnh. Tuy nhiên, hoàn lưu bão kết hợp với mưa sau bão tiếp tục gây mưa to đến rất to ở khu vực Bắc Trung Bộ, tiềm ẩn nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng diện rộng.
Bão số 5 càn quét làm hàng trăm ngôi nhà tốc mái, hơn 16.300 ha lúa bị ngập
Theo báo cáo nhanh của Cục Quản lý đê điều và Phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tính đến 19h ngày 25/8, bão số 5 đã gây thiệt hại lớn về tài sản tại nhiều tỉnh, thành phố từ Ninh Bình đến Huế.
Khẩn trương bảo đảm lương thực, nước uống cho khu vực nguy cơ cô lập do bão số 5
Trước diễn biến phức tạp của bão số 5, Bộ Công Thương chỉ đạo các địa phương khẩn trương triển khai dự trữ và cung ứng lương thực, thực phẩm, nước uống cho những khu vực có nguy cơ bị cô lập, bảo đảm nhu cầu thiết yếu của người dân không bị gián đoạn.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: