Dữ liệu của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF) theo dõi các chính sách tài khóa trên khắp thế giới hỗ trợ nền kinh tế đương đầu với Covid-19 cho thấy liều lượng của Việt Nam đến tháng 6/2021 là 1,7% GDP. So với nhiều nền kinh tế tương đồng khác thì tỷ lệ này là khiêm tốn. Trong khi doanh nghiệp và người dân đang rất kỳ vọng một gói kích thích kinh tế có quy mô lớn thì quy mô cụ thể vẫn chưa được xác định, cũng như sẽ phân bổ như thế nào...
Các cơ quan hoạch định chính sách ở Việt Nam mỗi khi đưa ra các con số thường không có tài liệu kỹ thuật kèm theo.
Vì thế những người quan tâm không biết các tính toán này dựa trên mô hình, giả định, dữ liệu nào. Ví dụ, vì sao gói kích thích kinh tế là 800.000 tỷ đồng mà không phải là một con số khác?
DỰA VÀO ĐÂU ĐỂ TÍNH TOÁN?
Mỗi nền kinh tế có một mô hình tăng trưởng khác nhau, và cần được kiểm định lại với các dữ liệu trong quá khứ. Quan trọng nhất trong đó là hàm sản xuất của cả nền kinh tế là theo mô hình lý thuyết nền tảng nào. Bởi vì GDP (Y) của một nền kinh tế là phụ thuộc vào các biến số như tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ (G) và xuất nhập khẩu (X-M).
Rồi từ đó, thay đổi của nhu cầu vốn (K) có mối quan hệ như thế nào với thay đổi của GDP (Y), hay nói cách khác nếu biết sự thay đổi của Y chúng ta có thể tính toán được sự thay đổi của K. Chẳng hạn, nếu muốn trong ngắn hạn GDP tăng trưởng x% thì sẽ tính được con số cụ thể của lượng vốn cần thiết.
Ông Võ Đình Trí, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, IPAG Business School, AVSE Global.
Các cơ quan hoạch định chính sách có thể có mô hình và cách tính riêng của mình, nhưng vì không tiếp cận được nên người viết đã tham khảo một nghiên cứu của GS. Lê Văn Cường và các đồng tác giả năm 2019 để ước tính nhu cầu vốn là bao nhiêu khi Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP.
Với dữ liệu giai đoạn 2005-2017, nhóm tác giả đã phát hiện ra rằng hàm sản xuất của nền kinh tế Việt Nam là một dạng đặc biệt, là hàm Leontief. Từ đó, với các giả định về tỷ lệ khấu hao tài sản từ 5-7%, tốc độ tăng trưởng năm 2018 đã có cũng như tỷ lệ đầu tư, TFP của Việt Nam tính toán được là 0,36-0,40, và hệ số vốn (v) là 2,8.
Ở một cách tiếp cận khác, nếu cần tăng trưởng của quý IV/2021 là 8% để kéo tăng trưởng cả năm là 3% sau khi quý III/2021 bị âm 6,17% thì chi tiêu của Chính phủ cũng phải ở mức xoay quanh 8% GDP là tối đa, với giả định hỗ trợ cho người dân là 4% và doanh nghiệp là 4% (trường hợp doanh nghiệp kiệt quệ hoàn toàn).
Lý do phải hỗ trợ cả người dân và doanh nghiệp để kinh tế phục hồi là bởi vì GDP còn phụ thuộc vào chi tiêu của người dân, nếu chỉ hỗ trợ doanh nghiệp mà không tăng khả năng chi tiêu của người dân thì nền kinh tế cũng không thể hấp thụ hết lượng hàng hóa dịch vụ được cung ứng.
ƯỚC LƯỢNG CHÍNH XÁC HƠN
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nghiên cứu của nhóm tác giả nói trên vẫn còn một số điểm yếu cần khắc phục.
Vấn đề khó khăn nhất của nghiên cứu là có đủ nguồn dữ liệu để kiểm chứng lại tính hiệu quả của mô hình. Chẳng hạn để tăng sự chắc chắn hàm sản xuất của Việt Nam là Leontief thì cần phải có dữ liệu đầy đủ, tương đối chính xác về lương (wage), vốn (captial stock) và lao động (labor).
Nhưng cái khó là sự tồn tại chênh lệch giữa lương danh nghĩa và thu nhập thực tế của một bộ phận không nhỏ lao động ở Việt Nam. Ngay cả trong trường hợp có số liệu về thu nhập thì số liệu chưa được tổng hợp và công bố hàng năm.
Các nhóm nghiên cứu ở các cơ quan hoạch định chính sách có thể có nhiều nguồn dữ liệu hơn nhưng người viết có cảm giác các dữ liệu này đang rời rạc và chưa được thống kê theo đúng chuẩn để có thể chia sẻ, sử dụng lại cho nhiều mục đích khác nhau.
Đây cũng là một trách nhiệm rất lớn của Tổng cục Thống kê, vì nếu dữ liệu không đủ, không đúng, thì khó có thể kết luận được mô hình nào là tốt hơn. Mà nếu mô hình không được kiểm định chặt chẽ (robust test) thì có khả năng bị sai sót, kéo theo các mô phỏng hay ước lượng sẽ không còn giá trị. Tuy vậy, vấn đề dữ liệu thống kê kinh tế của Việt Nam cho đến nay vẫn là nỗi niềm của nhiều người làm nghiên cứu, chuyên gia kinh tế.
Việc tính toán tương đối chính xác nhu cầu vốn để kích thích nền kinh tế là rất quan trọng bởi vì quy mô nền kinh tế của Việt nam còn nhỏ, có nhiều ràng buộc khác. Không có khả năng vung tay chi thoải mái như một số quốc gia khác nhưng nếu liều lượng không đủ thì hiệu quả cũng không đạt được như mong muốn, có khi còn rơi vào tình trạng “đá ném ao bèo”.
Mà ngay cả trong trường hợp đã ước lượng được nguồn vốn cần thiết thì vẫn còn nhiều câu hỏi quan trọng ở các bước tiếp theo: nguồn lực sẽ lấy từ đâu, có tiền như phần cứng nhưng phần mềm là thể chế kinh tế có tích hợp được với nhau, và rồi việc phân bổ thực hiện như thế nào để nguồn lực đến kịp thời, đến đúng đối tượng cần nhận hỗ trợ?
Nhiều nền kinh tế khác trên thế giới có thể nói là đã khống chế được dịch bệnh và đã bắt đầu quá trình hồi phục nền kinh tế. Kinh nghiệm của các nước này cũng đã được tổng kết và chia sẻ, thông qua các định chế quốc tế như IMF, WB, OECD... Việt Nam đã rất thành công trong giai đoạn đầu chống lại dịch bệnh nhưng những diễn biến phức tạp đã khiến cho Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn ở giai đoạn này.
Gói kích thích kinh tế lớn là điều cần phải làm sớm lúc này, và cần phải ước lượng được liều lượng phù hợp. Những lo ngại về lạm phát, nguồn vốn sử dụng không hiệu quả lúc này không quan trọng bằng vực dậy doanh nghiệp, vực dậy nền kinh tế.
Một khi doanh nghiệp được khỏe lại, nền kinh tế lấy lại đà thì việc xử lý lạm phát hay những sai phạm là trong khả năng. Vì Việt Nam gần đây đã từng có kinh nghiệm với giai đoạn 2011-2012. Điều quan trọng là thông tin đến với người dân, doanh nghiệp, và những người đại diện thực thi một cách nhất quán, rõ ràng về chương trình hành động, những khích lệ và những biện pháp mạnh xử lý các sai phạm.
(*) Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, IPAG Business School và AVSE Global
Xuất hiện “điểm sáng” le lói, doanh nghiệp cần thêm hỗ trợ để phục hồi kinh tế
TP.HCM phát huy thế mạnh để phục hồi du lịch
TP.HCM cần gần 30.000 tỷ đồng hỗ trợ phục hồi kinh tế trong ngắn hạn
Đề xuất giao mỏ vật liệu cho nhà thầu ngay khi dự án khởi công
Cục Đường bộ Việt Nam kiến nghị sớm ban hành cơ chế đặc thù về mỏ vật liệu để tháo gỡ khó khăn, bảo đảm tiến độ các dự án cao tốc. Đồng thời, các đơn vị khảo sát kỹ nguồn vật liệu ngay từ giai đoạn lập dự án nhằm chủ động nguồn cung…
Đề xuất đầu tư công 3.600 tỷ xây trung tâm logistics ở Tây Ninh
Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định chấm dứt hoạt động Dự án trung tâm logistics tỉnh, sau hơn 5 năm chưa thể triển khai vì chậm tiến độ; đồng thời kiến nghị trung ương xem xét hỗ trợ xây dựng lại dự án bằng nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2026 - 2030...
Phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng Cảng, bến thủy Công an nhân dân trên toàn quốc
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1818/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đầu tư xây dựng Cảng, bến thủy Công an nhân dân trên phạm vi toàn quốc và trang bị tàu tuần tra cho lực lượng Cảnh sát đường thủy...
Đường sắt trong hành trình hội nhập và phát triển bền vững
Sau nhiều năm bị coi là “chậm nhịp” trong bức tranh hạ tầng, ngành đường sắt Việt Nam đang bước vào giai đoạn tái thiết với những tín hiệu mới...
Gắn kết “cầu nối” cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) của Việt Nam và Hàn Quốc
Hiện có khoảng 10.000 doanh nghiệp Hàn Quốc đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: