Chưa thấy “bóng dáng” thị trường khoa học công nghệ cho dệt may
Vũ Khuê
21/10/2022, 13:27
Muốn giữ chân khách hàng truyền thống, mở rộng thị trường, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, các doanh nghiệp cần bắt kịp xu thế thị trường, đầu tư máy móc hiện đại, đổi mới công nghệ… song đây vẫn đang là những bài toán cần lời giải của ngành dệt may Việt Nam…
Ngành sợi có mức độ công nghệ hiện đại cao nhất.
Tại “Hội nghị khoa học toàn quốc về dệt may và da giày lần thứ 3” do Câu lạc bộ Khoa học Dệt may và Da giày Việt Nam tổ chức ngày 20/10, PGS.TS. Phan Thanh Thảo, Viện trưởng Viện Dệt May, Da giầy và Thời trang cho rằng năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, ngành dệt may, da giày đã vượt lên khó khăn, duy trì đà tăng trưởng tốt với kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 40,4 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 14,8% và kim ngạch xuất khẩu da giầy đạt 20,7 tỷ USD, tăng 4,6% so với 2020.
CHƯA TẬP TRUNG ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Đặc biệt, dù là ngành dệt may có kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ 4 trong các ngành, nhưng thặng dư thương mại dệt may luôn đứng vị trí thứ nhất. Đơn cử, ngay năm 2021, con số thặng dư đạt khoảng 20 tỷ USD. Tỷ lệ nội địa hóa đã tăng lên 57% trong 8 tháng năm 2022.
Ông Cao Hữu Hiếu, Tổng Giám đốc Tập đoàn dệt may Việt Nam (Vinatex) nhận định, để có những thành quả khả quan trong một giai đoạn diễn biến phức tạp như thời gian qua, bên cạnh việc làm tốt những hoạt động như quản trị sản xuất, công tác thị trường,… chính việc áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ, triển khai sáng kiến đã giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất, tăng năng suất, chất lượng, vượt khó thành công.
Có thể kể đến những công nghệ như: sử dụng máy móc thiết bị tự động, số hóa từng công đoạn sản xuất, tăng cường sử dụng các phần mềm để giao dịch với khách hàng, thiết kế sản phẩm, chuyển giao mẫu cho khách hàng theo hình thức trực tuyến,…
Hội nghị khoa học toàn quốc về dệt may và da giày lần thứ 3.
Mặc dù vậy, bức tranh trình độ công nghệ và tốc độ đổi mới công nghệ của ngành dệt may Việt Nam được các ý kiến đánh giá vẫn chưa sáng.
TS.Hoàng Xuân Hiệp, Hiệu trưởng Trường Đại học công nghiệp dệt may Hà Nội dẫn số liệu phân tích của Bộ Khoa học Công nghệ cho thấy, việc ứng dụng công nghệ cảm biến, công nghệ sử dụng các thiết bị di động trong điều hành quản trị đang được dùng tương đối phổ biến trong ngành dệt may, nhưng cũng chỉ ở mức 3,25 trên thang đo 5, công nghệ robot cũng chỉ ở mức 2,6.
Tốc độ đổi mới công nghệ trung bình giai đoạn 2016-2020 là 12,47%, nhưng chỉ số này không đạt chỉ tiêu của Bộ Khoa học và Công nghệ đặt ra là 15-20%. “Đây chính là bài toán đòi hỏi ngành cần tập trung giải quyết”, ông Hiệp nêu vấn đề.
Một con số nữa cũng đáng quan tâm, đó là về mức độ hiện đại của thiết bị, thì ngành sợi có mức độ hiện đại cao nhất nhưng cũng chỉ 3,01/thang đo 5. Còn ngành dệt ở mức rất thấp, chỉ là 2 – dưới trung bình.
Về tốc độ đổi mới: tính sẵn sàng cho những công nghệ mới ở ngành sợi cao nhất là 3,02; ngành nhuộm thấp nhất là 2,3, ngành may 2,85.
Một lần nữa ông Hiệp nhấn mạnh: “Nếu chúng ta không tập trung vào khoa học công nghệ thì sẽ không thúc đẩy được sức cạnh tranh của ngành dệt may”.
CẦN GỠ NHỮNG RÀO CẢN
Những hạn chế trên theo ông Hiệp là do các yếu tố về chính sách cản trở sự phát triển công nghệ phục vụ cho ngành dệt may tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Doanh nghiệp dệt may khó tiếp cận dữ liệu về nguồn cung công nghệ trong nước và quốc tế do Việt Nam chưa hình thành và phát triển tổ chức trung gian riêng của thị trường khoa học công nghệ cho ngành dệt may. Dẫn tới bất cập lớn là doanh nghiệp muốn tiếp cận công nghệ mới cũng không biết đến đâu tìm, hay có sản phẩm cũng không biết quảng bá, bán ở đâu.
Ngoài ra, chúng ta chưa tổ chức được hệ thống cơ sở dữ liệu về phía cung và cầu khoa học công nghệ cho ngành. Việc xúc tiến thị trường khoa học và công nghệ của ngành cũng chưa được triển khai đáng kể tại Việt Nam do chưa có nhiều hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, triển lãm về kết quả nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này. Cũng chưa có nhiều dự án, chương trình hợp tác, chia sẻ chuyên gia, kết nối chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp với đối tác công nghệ trong và ngoài nước.
Hơn nữa, việc kết nối giữa doanh nghiệp dệt may với các trung tâm nghiên cứu khoa học, Viện nghiên cứu còn rất hạn chế. Nguyên nhân do thiếu chuyên gia kết nối, chính sách của nhà nước chưa khuyến khích các viện nghiên cứu, trường, doanh nghiệp làm việc này…
Bên cạnh đó, các chính sách nhà nước liên quan đến việc thương mại hoá các sản phẩm khoa học công nghệ là tài sản công còn nhiều vướng mắc. Cụ thể, rất khó để định giá tài sản công trước khi thương mại hoá theo quy định. Hay luật yêu cầu hoàn trả phần đầu tư của nhà nước cho nghiên cứu sẽ gây rủi ro cao với doanh nghiệp.
Các chính sách ưu đãi thuế, vốn vay, hạ tầng kỹ thuật cho các dự án công nghệ cao hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam yếu về vốn, công nghệ. Nhà nước lại chưa có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong việc giảm thuế, ưu đãi lãi vay khi đầu tư công nghệ hiện đại…
Do đó, để thúc đẩy ứng dụng công nghệ hiện đại vào ngành dệt may, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của ngành trong chuỗi cung ứng, ông Hiệp kiến nghị, cần thành lập các khu công nghiệp dệt may lớn với diện tích từ 500ha trở lên, đồng bộ về công nghệ sản xuất cũng như xử lý môi trường hiện đại.
Chính phủ cần thiết kế các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, lãi vay… cho các dự án đầu tư công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 trong lĩnh vực dệt may.
Đồng thời nghiên cứu thành lập tổ chức trung gian của thị trường khoa học công nghệ cho ngành dệt may. Hỗ trợ doanh nghiệp dệt may thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo ở 3 miền Bắc, Trung, Nam và kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các trung tâm.
Đặc biệt, vấn đề dự báo, đánh giá được nhu cầu và khả năng cung ứng công nghệ trong ngành dệt may trong giai đoạn 2022 -2030 ông Hiệp cho rằng rất quan trọng. Cùng với đó, cần thiết lập mạng lưới chuyên gia tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin, đầu tư, chuyển giao công nghệ. Mạng lưới này gồm các chuyên gia giỏi đến từ các Viện nghiên cứu, trường đại học, kỹ sư giàu kinh nghiệm…
Xuất khẩu dệt may đối diện nguy cơ giảm mạnh từ nay đến năm 2023
Doanh nghiệp dệt may nguy cơ lỗ lớn do áp lực tỷ giá và đơn hàng xuất khẩu giảm mạnh
Dệt may chính thức khởi động mô hình kinh tế tuần hoàn
Thương mại điện tử đang thiếu nhân lực ở nhiều vị trí chủ chốt
Nhu cầu nhân lực cho thương mại điện tử tăng trưởng 30–40% mỗi năm nhưng chỉ khoảng 30% nhân lực hiện được đào tạo chính quy. Khoảng cách này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc xây dựng chương trình đào tạo hiện đại, gắn kết thực tiễn…
Aristino lan tỏa tinh thần dân tộc qua thời trang và trách nhiệm xã hội
Mừng đại lễ, thương hiệu thời trang Aristino không chỉ mang đến những sản phẩm chất lượng mà còn lan tỏa tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc qua loạt hoạt động ý nghĩa, thể hiện cam kết mạnh mẽ với cộng đồng và xã hội.
Ban hành Kế hoạch triển khai Nghị quyết Quốc hội về dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) tổ chức đàm phán hoàn tất các quy trình, thủ tục và tiến hành, ký kết điều ước quốc tế với các đối tác về hợp tác đầu tư xây dựng 2 dự án. Phấn đấu hoàn thành trong tháng 9/2025 đối với dự án Ninh Thuận 1 và tháng 12/2025 đối với dự án Ninh Thuận 2…
Sản xuất hữu cơ: Hướng đi bền vững của ngành chè Việt Nam
Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, các chuyên gia cho rằng để cải thiện kết quả xuất khẩu, ngành chè Việt Nam cần tập trung vào chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy sản xuất theo quy trình hữu cơ nhằm nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường bền vững…
Thịt trâu thải loại, giá rẻ từ Ấn Độ nhập khẩu về Việt Nam ngày càng nhiều
Theo số liệu từ Cục Hải Quan, trong nửa đầu năm 2025, Việt Nam nhập khẩu tới 103 nghìn tấn thịt trâu từ Ấn Độ, tăng 14,2% về khối lượng với cùng kỳ năm trước. Điều đáng nói, thịt trâu Ấn Độ vốn từ giống trâu Murrah chuyên nuôi để lấy sữa, thịt không ngon, nhưng lại bán chạy ở Việt Nam…
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: