Biến giấc mơ trung tâm tài chính khu vực thành hiện thực
Phan Linh
02/06/2022, 14:26
Sau TP. Hồ Chí Minh, mới đây TP.Đà Nẵng đã giới thiệu đề án thành lập Trung tâm tài chính quy mô khu vực. Các chính quyền địa phương kỳ vọng biến hai nơi này thành nơi trung chuyển vốn của khu vực và tiến tới là của toàn cầu. Song, nhiều chuyên gia khuyến nghị nên nhìn vào chiều sâu của thị trường tài chính Việt Nam để có lộ trình phát triển khả thi, hiệu quả.
Giới phân tích nhận định TP. HCM có lợi thế trở thành trung tâm tài chính quốc tế.
Đầu tháng 3/2022, Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh Phan Văn Mãi ký văn bản khẩn gửi Thủ tướng và Bộ Tài chính báo cáo tiến độ xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP. Hồ Chí Minh.
Sau TP. Hồ Chí Minh, đầu tháng 5/2022, TP. Đà Nẵng cũng giới thiệu đề án thành lập Trung tâm tài chính quy mô khu vực. Chính quyền thành phố cho biết, để chuẩn bị cho việc xây dựng khu phức hợp trung tâm tài chính, Đà Nẵng quy hoạch sẵn khu đất rộng 6,17 ha nằm sát biển Mỹ Khê. Vị trí này hội đủ những điều kiện tốt nhất về hạ tầng kết nối, dễ dàng hình thành một điểm nhấn kiến trúc mang tính biểu tượng với các dịch vụ đẳng cấp.
Đà Nẵng cũng đang tiến hành chuyển đổi Khu công nghiệp Đà Nẵng (quận Sơn Trà) với diện tích hơn 62 ha thành khu trung tâm kinh doanh, định hướng phát triển khu vực này thành khu phố tài chính, một tổ hợp trung tâm tài chính đầy đủ về quy mô và không gian phát triển.
TỪ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI ĐẾN TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Theo các chuyên gia, Việt Nam có tiềm năng xây dựng các trung tâm tài chính khu vực và thế giới. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần rất nhiều nỗ lực cải cách chính sách, thúc đẩy chuyển đổi số và tự do thương mại.
Theo thông lệ quốc tế, sự phát triển của thị trường tài chính sẽ theo bậc thang là tự do hóa thương mại rồi đến tự do hóa tài chính. Trong khi, Việt Nam hiện vẫn trong giai đoạn tự do hóa thương mại.
Từng có 18 năm làm việc tại các vị trí cấp cao của Deutsche Bank, một trong những định chế tài chính lớn nhất châu Âu, nay giữ vai trò Giám đốc quốc gia Quỹ Friedrich Naumann Foundation for Freedom tại Việt Nam, Giáo sư Andreas Stoffers thừa nhận rằng các hiệp định định thương mại tự do như EVFTA, CPTPP và UKVFTA tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên cơ sở đổi mới sáng tạo và hoàn thiện nền tảng kinh tế số.
Ở góc độ kích cầu cho trung tâm tài chính khu vực, các chuyên gia đều nhất trí khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập đủ sâu, rộng thì nhu cầu của các nhà đầu tư trên khắp thế giới vào Việt Nam sẽ được thúc đẩy.
Một điều rất quan trọng mà Việt Nam cần cải thiện nếu muốn xây dựng các trung tâm tài chính, đó là hình thành một đường cong lãi suất tiêu chuẩn ngắn hạn theo thị trường. Đây vốn là nền tảng cho rất nhiều thành tố khác của thị trường vốn hiện đại nhưng Việt Nam vẫn chưa có.
Ông Andreas Stoffers cho biết, khi thương mại tự do được thúc đẩy, Việt Nam sẽ cần quan tâm củng cố các tổ chức tài chính trong nước, quản trị và vận hành theo thông lệ quốc tế. Đây là một bước chuẩn bị rất quan trọng về năng lực cho các định chế tài chính trong nước. “Vị trí lý tưởng cho một trung tâm tài chính như vậy có thể là TP.HCM, nơi vốn đã được coi là trái tim kinh tế của cả nước. Tuy nhiên, vẫn cần phải làm việc kỹ hơn để đạt được mục tiêu này”, ông Andreas Stoffers nói.
Song song với việc thúc đẩy tự do thương mại, các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam nên tiến hành các khảo sát trên quy mô rộng để biết rõ nhu cầu của các nhà đầu tư trên thế giới; từ đó, xây dựng đề án phát triển trung tâm tài chính khả thi. Tiếp theo, Việt Nam cũng phải có lộ trình cải thiện cơ cấu của thị trường tài chính, để khắc phục những hạn chế “lệch chân” như hiện nay, là sự mất cân đối giữa ngân hàng và chứng khoán, bảo hiểm và cấu trúc chưa tiệm cận với các thị trường phát triển trên thế giới.
Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tìm đến những thị trường, nơi họ có thể hoàn tất giao dịch một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, các chuyên gia đánh giá Việt Nam đang tụt hậu trong một số lĩnh vực quan trọng như cơ chế bù trừ ròng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này khiến các ngân hàng nước ngoài phải nắm giữ thêm vốn dự phòng rủi ro ở Việt Nam.
CẦN HÀNH LANG PHÁP LÝ TOÀN DIỆN VÀ ỔN ĐỊNH
Chuyên gia Donald Lambert của ADB nhấn mạnh rằng, các nhà đầu tư quốc tế cần một khung luật pháp rõ ràng để thực thi và hệ thống pháp luật này phải ổn định. Có như vậy, Việt Nam mới trở thành nơi đón dòng vốn từ khắp mọi nơi trên thế giới.
Có thể nói, hiện tại khung luật pháp bao gồm: Luật Chứng khoán 2019, Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2020, Luật Đầu tư (sửa đổi) 2020 và các nghị định liên quan cùng có hiệu lực từ đầu năm 2021 là tiền đề quan trọng thúc đẩy thị trường tài chính phát triển an toàn, hiệu quả trong các năm tiếp theo.
Song, ông Donald Lambert lưu ý Việt Nam quan tâm củng cố, xây dựng các cơ chế mạnh mẽ để chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Đây là những yếu tố then chốt để bảo đảm rằng các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài có thể giao dịch an toàn tại thị trường trong nước.
Ngoài ra, giáo sư Andearas Stoffer khuyến nghị luật pháp cần được điều chỉnh và tạo điều kiện hấp dẫn cho hoạt động thanh toán của các tổ chức tài chính quốc tế.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, các chuyên gia nhấn mạnh Việt Nam nên có khung pháp lý cho chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính, bao gồm cả cơ chế thử nghiệm (sandbox). “Theo quan điểm của chúng tôi, mặc dù việc ban hành sandbox cho các vấn đề mới như chuyển đổi số không còn mới trên thế giới, nhưng vẫn là vấn đề cần thiết và phù hợp tại Việt Nam do cơ chế sandbox mới được ban hành cho một vài lĩnh vực”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
Hiện, Chính phủ mới ban hành cơ chế sanbox cho mobile money ( tháng 3/2021).
Nghị quyết 01/NQ-CP năm 2022 đề cập đến Nghị định về sandbox đối với fintech trong lĩnh vực ngân hàng dự kiến trình Chính phủ trong quý 2/2022 (lùi từ quý 4/2021), cho thấy bước đi thận trọng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong việc phát triển fintech tại Việt Nam.
Theo các chuyên gia, cơ chế sandbox sẽ giúp các định chế tài chính, công ty fintech và các bên liên quan có cơ hội thử nghiệm công nghệ hay mở rộng mô hình kinh doanh của mình; tạo điều kiện để các cơ quan quản lý Việt Nam hiểu rõ hơn về bản chất và rủi ro mà công nghệ tài chính đem lại, từ đó có thiết chế phù hợp hơn.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng số cho thị trường tài chính là cần thiết. Ngoài việc phát triển công nghệ tài chính (fintech), các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam thúc đẩy hạ tầng cho quản lý tài sản số, chia sẻ dữ liệu và đảm bảo an ninh mạng.
Đặc biệt, giáo sư Anderas Stoffers khuyến nghị các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam sớm nghiên cứu, tiến tới áp dụng đồng tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC). “Trong tương lai, nhiều giao dịch sẽ phải đi kèm với thanh toán kỹ thuật số. Vì vậy, Việt Nam cần tăng tốc trong phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, bao gồm việc triển khai nhanh chóng một CBDC”, vị chuyên gia này nói và khuyến nghị Quốc hội, Chính phủ nên chỉ đạo đẩy nhanh xây dựng thể chế, hành lang pháp lý cho quản lý, phát triển kinh tế số, xã hội và chính quyền số.
Theo báo cáo “Cuộc đua tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CDBC)” do PwC phát hành, đã có hơn 60 ngân hàng trung ương nghiên cứu CBDC từ năm 2014. Tiến độ được đẩy nhanh với một số dự án CBDC đang bước vào giai đoạn triển khai.
Một số định chế tài chính quốc tế cũng đang tham gia vào các dự án CBDC, như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế hoặc Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
Hiện nay, ngân hàng trung ương các nước đang thiết kế hai mô hình CBDC chính. Đối với ứng dụng bán lẻ, CBDC được trực tiếp sở hữu bởi người tiêu dùng và doanh nghiệp như một dạng tiền kỹ thuật số. Còn ứng dụng liên ngân hàng hoặc bán buôn, trong đó CBDC chỉ được sử dụng bởi các tổ chức tài chính - tín dụng cho mục đích thanh toán liên ngân hàng hoặc quyết toán.
Các dự án CBDC bán lẻ phát triển mạnh mẽ hơn tại các quốc gia có nền kinh tế mới nổi với tài chính toàn diện là động lực thúc đẩy chính. CBDC bán buôn chủ yếu được tiến hành tại các quốc gia có nền kinh tế tiên tiến hơn với hệ thống liên ngân hàng và thị trường vốn phát triển hơn.
Đánh giá các dự án phát triển nhất trên toàn cầu, có hai dự án CBDC bán lẻ đã đi vào hoạt động tại Bahamas và Campuchia. Chưa có dự án CBDC liên ngân hàng/bán buôn nào hoàn thiện. Tuy nhiên, gần 70% dự án bán buôn được công bố đang chạy thử nghiệm, trong khi chỉ có 23% dự án bán lẻ đi vào giai đoạn triển khai.
Thị trường tài chính Việt Nam 2022: Cơ hội đan xen thách thức
Thủ tướng muốn các tập đoàn tài chính Hoa Kỳ mở rộng đầu tư tại Việt Nam
Thủ tướng đề nghị Hoa Kỳ chia sẻ kinh nghiệm phát triển thị trường tài chính lành mạnh, minh bạch
Thuế TP. Hà Nội nêu điều kiện thanh toán không dùng tiền mặt được khấu trừ thuế
Kể từ ngày 1/7/2025, điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng được siết chặt khi hóa đơn trên 5 triệu đồng đều phải thanh toán không dùng tiền mặt. Tuy nhiên, đi cùng với đó là sự linh hoạt hơn cho doanh nghiệp nhờ cơ chế ủy quyền thanh toán cho người lao động…
Bộ Tài chính dự kiến doanh thu phí bảo hiểm 2025 giảm 3,29% so với 2022
Bộ Tài chính cho biết tăng trưởng thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2022–2025 có dấu hiệu chậm lại, các chỉ tiêu chủ yếu chỉ tăng khoảng 10%. Do đó, bộ sẽ trình Chính phủ, Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2025 theo thủ tục rút gọn…
Ngân hàng Nhà nước bơm ròng 15.463 tỷ đồng, lãi suất liên ngân hàng biến động nhẹ
Ngày 25/8/2025, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục sử dụng kênh thị trường mở (OMO) để hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, với tổng khối lượng trúng thầu trên kênh cầm cố đạt 32.615,18 tỷ đồng...
Thu thuế quan có thể giúp Mỹ giảm 4 nghìn tỷ USD thâm hụt ngân sách
Ước tính mới nhất cho thấy hiệu ứng tăng thu ngân sách của thuế quan sẽ bù đắp gần như hoàn toàn hiệu ứng gây thâm hụt ngân sách từ đạo luật chi tiêu và giảm thuế “lớn lao và đẹp đẽ” (OBBBA) của ông Trump...
Giải pháp tài chính toàn diện cho doanh nghiệp tư vấn du học và xuất khẩu lao động
Với các gói tài chính ưu đãi, doanh nghiệp và du học sinh, lao động Việt Nam có thêm cơ hội học tập, lập nghiệp và phát triển nơi xứ người.
Sáu giải pháp phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng
Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển năng lượng xanh, sạch nhằm đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững. Ông Nguyễn Ngọc Trung chia sẻ với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy về sáu giải pháp để phát triển nhanh và bền vững ngành năng lượng nói chung và các nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới nói riêng…
Nhân lực là “chìa khóa” phát triển điện hạt nhân thành công và hiệu quả
Trao đổi với Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy, TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nhấn mạnh vấn đề quan trọng nhất khi phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam là nguồn nhân lực, xây dựng năng lực, đào tạo nhân lực giỏi để tham gia vào triển khai, vận hành dự án...
Phát triển năng lượng tái tạo, xanh, sạch: Nền tảng cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
Quốc hội đã chốt chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 8% cho năm 2025 và tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2026 – 2030. Để đạt được mục tiêu này, một trong những nguồn lực có tính nền tảng và huyết mạch chính là điện năng và các nguồn năng lượng xanh, sạch…
Nhà đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam vẫn đang ‘mò mẫm trong bóng tối’
Trả lời VnEconomy bên lề Diễn đàn năng lượng xanh Việt Nam 2025, đại diện doanh nghiệp đầu tư năng lượng tái tạo nhận định rằng Chính phủ cần nhanh chóng ban hành các thủ tục và quy trình pháp lý nếu muốn nhà đầu tư nước ngoài rót vốn vào các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam...
Tìm lộ trình hợp lý nhất cho năng lượng xanh tại Việt Nam
Chiều 31/3, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam, Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tạp chí Kinh tế Việt Nam tổ chức Diễn đàn Năng lượng Việt Nam 2025 với chủ đề: “Năng lượng xanh, sạch kiến tạo kỷ nguyên kinh tế mới - Giải pháp thúc đẩy phát triển nhanh các nguồn năng lượng mới”...
Thuế đối ứng của Mỹ có ảnh hướng thế nào đến chứng khoán?
Chính sách thuế quan mới của Mỹ, đặc biệt với mức thuế đối ứng 20% áp dụng từ ngày 7/8/2025 (giảm từ 46% sau đàm phán),
có tác động đáng kể đến kinh tế Việt Nam do sự phụ thuộc lớn vào xuất khẩu sang Mỹ (chiếm ~30% kim ngạch xuất khẩu).
Dưới đây là phân tích ngắn gọn về các ảnh hưởng chính: